Chỉ có 15% trong số hơn 100 dạng HPV có thể gây ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, dấu hiệu nhiễm HPV lại không rõ ràng.
Ngày
6/10/2008, giải Nobel y học 2008 đã được trao cho nhà khoa học Đức
Harald zur Hausen (72 tuổi) với công trình phát hiện virus HPV, tác nhân
gây bệnh ung thư cổ tử cung. Trong khi HIV gần như không xa lạ với con
người thì HPV đang là vấn đề thời sự.
Từ năm 1972, không ai tin HPV là thủ phạm gây ung thư cổ tử cung.
Giờ
đây, con người đã biết đến hơn 100 dạng HPV, nhưng chỉ có 40% số đó gây
nhiễm trùng đường sinh dục và 15% dạng HPV đặt phụ nữ vào thế có nguy
cơ bị ung thư cổ tử cung.
Quá
trình diễn tiến từ nhiễm virus đến ung thư thường lâu dài, từ loạn sản
nhẹ, vừa, nặng đến ung thư tại chỗ (giai đoạn tổn thương có thể phục hồi
và chữa khỏi hoàn toàn) đến ung thư xâm lấn (không có khả năng phục
hồi). Không phải ai nhiễm các chủng HPV "độc" cũng bị ung thư cổ tử
cung. Bệnh này thường xuất hiện khi có thêm các yếu tố nguy cơ như quan
hệ tình dục sớm, nhiều bạn tình, vệ sinh kém, suy giảm miễn dịch, đẻ,
nạo hút hay sẩy thai nhiều lần... Những tổn thương này tạo điều kiện cho
virus HPV dễ tiếp cận hơn với lớp tế bào đáy cổ tử cung, vốn nằm sâu
bên dưới. Sau khi xâm nhập, HPV gây biến đổi các tế bào này. Trải qua
nhiều năm, tế bào trở thành ác tính.
Theo
điều tra của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, tỷ lệ nhiễm HPV của
phụ nữ toàn cầu dao động trong khoảng 9-13%, nghĩa là cứ 10 phụ nữ thì
một bị nhiễm HPV. Virus chủ yếu lây qua da và quan hệ tình dục. Như vậy,
khi thực hiện quan hệ tình dục không an toàn, người mang virus này đã
truyền nguy cơ ung thư sang cho người khác.
Khi
ung thư chưa xâm lấn, bệnh nhân hầu như không có dấu hiệu lâm sàng, có
thể ra nhiều khí hư hơn bình thường, khám phụ khoa cũng không thấy tổn
thương. Tuy nhiên, nếu người phụ nữ thường xuyên khám phụ khoa đúng định
kỳ và làm xét nghiệm tế bào (được khuyến cáo với tất cả những phụ nữ có
quan hệ tình dục), bệnh sẽ được phát hiện. Lúc này, khả năng chữa khỏi
là 95%.
Khi
ung thư đã xâm lấn, các triệu chứng mới rõ rệt như ra khí hư có mùi
hôi, ra máu giữa kỳ kinh, sau mãn kinh hay sau giao hợp... Ở giai đoạn
cuối, bệnh nhân có thể đau bụng dưới, đau lưng, tỷ lệ sống thêm 5 năm
chỉ còn khoảng 5%.
Hiện
chưa có cách điều trị HPV đặc trị. Dù vậy, trong đa số trường hợp, hệ
miễn dịch con người “quét sạch” HPV trong vòng 2 năm mà không cần chữa
trị. Thuốc có thể làm mụn biến mất nhanh hơn. Tuy nhiên HPV vẫn còn lại
trong cơ thể, và người nhiễm có thể bị tái phát. Nếu bị nhiễm trùng
mạn tính, khả năng xuất hiện ung thư mới được tính đến.
Người
ta tính rằng, cứ khoảng một triệu phụ nữ bị nhiễm HPV 10% sẽ có biểu
hiện loạn sản ở giai đoạn tiền ung thư, trong số này có 8% sẽ tiến triển
thành ung thư giai đoạn sớm hay chưa xâm lấn, và khoảng 10 – 20% số
người ung thư ở giai đoạn chưa xâm lấn này nếu không điều trị mới tiến
triển thành ung thư dạng xâm lấn. Như vậy, trong tổng số một triệu phụ
nữ bị nhiễm trùng HPV ban đầu, chỉ có 0,16% hay 1.600 người về sau sẽ bị
ung thư. Cũng đáng lưu ý, ngoài ung thư cổ tử cung, HPV còn gây ung thư hậu môn, dương vật, miệng…
Hiện
đã có vacxin HPV cho phụ nữ từ 9 đến 26 tuổi. Văcxin này phòng được 4
dạng HPV gây ung thư cổ tử cung và mụn cóc dương vật, sùi mào gà.
Tuy
nhiên, các chuyên gia khuyến cáo, việc sử dụng văcxin không thể thay
thế các biện pháp phòng ngừa khác như giữ vệ sinh cơ thể và vệ sinh tình
dục, khám phụ khoa định kỳ. Phụ nữ đã có quan hệ tình dục thường xuyên
nên làm xét nghiệm phiến đồ âm đạo hằng năm hay tối thiểu 3 năm một lần,
nhất là với người ngoài 35 tuổi. Với những phụ nữ có các yếu tố nguy cơ
cao (nhiễm virus HPV, nhiều bạn tình, quan hệ sớm, nạo hút, sinh nở hay
sẩy thai nhiều lần...), cần làm xét nghiệm mỗi năm.
Triệu chứng nhiễm HPV

Mụn
có thể ở háng, niệu đạo, trực tràng, dương vật và bìu đàn ông, âm hộ,
âm đạo và cổ tử cung phụ nữ. Nhưng thường chỉ có khám chuyên khoa mới
phát hiện ra.
Mặc
dù mối liên hệ giữa HPV và ung thư cổ tử cung không còn bàn cãi, nhưng y
học cũng nhận thấy rằng HPV chỉ là một trong nhiều nguyên nhân gây
bệnh. Ngoài virus này, còn có những yếu tố nguy cơ khác như quan hệ tình
dục sớm, có nhiều bạn tình, quan hệ với người nam chưa cắt da bao quy
đầu hay có da quy đầu che phủ, nhiễm clamydia, nhiễm HIV, hút thuốc lá,
gia đình có người bị ung thư cổ tử cung, phụ nữ mang thai nhiều lần,
dùng thuốc tránh thai đường uống…
Tổng hợp từ sgtt.com, vnexpress, Yahoo Health